Skip to content

  Bát Tháp Tự là tên chữ của ngôi chùa làng Vạn Bảo, tương truyền chùa có từ cuối thời Lý, thuộc phường Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội.

Tương truyền, chùa Bát Tháp được xây từ thời Lý. Có thuyết cho rằng đó chính là chùa Chân Giáo dựng năm 1024 gần cung vua. Ông vua cuối cùng của nhà Lý là Huệ Tông đã bị Thái sư Trần Thủ Độ ép nhường ngôi cho con gái và ra tu ở chùa này. Một hôm Thủ Độ đến chùa thấy Huệ Tông đang nhổ cỏ bèn nói “Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”, vua biết ý liền tự tử.

Năm Gia Long thứ 2 (1803), chùa Bát Tháp được hợp nhất từ ngôi chùa trên núi Voi và ngôi chùa của thôn Vạn Bảo (sau đổi là thôn Vạn Phúc). Đợt khai quật khảo cổ học trước đây đã cho thấy trong khuôn viên chùa có nhiều di tích của thời Lý—Trần. Dãy tường hậu cung của nhà Tổ được xây bằng những viên gạch vồ phổ biến trong thời Lê. Khu chùa chính nằm trên vị trí cao nhất của gò Vạn Bảo Sơn.

Theo Hoàng Đạo Thuý thì Vạn Bảo Sơn là một gò đất ở khu vực phía nam kinh thành Thăng Long thời Lý. Đây là nơi giáp ranh giữa 3 thôn Vạn Bảo, Ngọc Hà, Đại Yên và thuộc về vùng “thập tam trại”, tương truyền do ông Hoàng Đức Trung sau khi có công với nhà vua đã xin di dân làng Lệ Mật từ Gia Lâm sang đây lập trại khai khẩn. Cổng nghi môn ngày nay mở ra hè phố Đội Cấn nhưng hầu như chỉ đóng, cho nên du khách thường vào thăm chùa Bát Tháp bằng cửa ngách ở trong con ngõ 209 Đội Cấn.

Chùa Bát Tháp mang phong cách nghệ thuật kiến trúc truyền thống của lần trùng tu lớn dưới thời Nguyễn. Các hạng mục từ ngoài vào trong gồm có cổng nghi môn, tam quan, tòa tam bảo, nhà thờ Mẫu, nhà khách và nhà thờ Tổ. Sân chùa cao hơn hẳn khu vườn trước và được che mát bởi hai cây nhãn to. Tòa tam bảo xây theo hình chuôi vồ, gồm tiền đường 7 gian 2 dĩ và hậu cung 3 gian.

Toàn bộ các công trình được xây theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” và mặc dù ngự trên nền cao khu chùa chính trông vẫn kín đáo, chỉ thấp thoáng ở đằng sau một không gian xanh vừa rộng vừa có chiều sâu. Đáng tiếc là hồ bán nguyệt đã bị lấp thành vườn cỏ từ lâu và nhà dân hiện nay vây kín xung quanh ba phía, kể cả ngõ vào; còn mặt nghi môn áp sát hè phố thì biến thành chỗ để xe và bán hàng vặt.

Tuy nhiên du khách chỉ cần đi qua khoảng trống phía ngoài tam quan vào trong chùa lập tức được thấy một quang cảnh hoàn toàn tương phản với phố xá trần tục. Nơi đây giữa những cây cối um tùm có một vườn tháp mộ vuông vắn nằm hơi chếch về mé tay trái. Trên trục chính đặt một giả sơn (hòn non bộ) khá lớn để che chắn tòa tam bảo. Hai bên sân tiền đường rộng rãi có cửa ngách ngăn với khu vực phía sau, tạo nên vẻ nghiêm trang u tịch riêng.

Tam quan của chùa Bát Tháp thuộc loại lớn, xây cao theo kiểu lầu hai tầng tám mái với ba cổng được tạo dựng hơi khác nhau. Cổng phụ ở hai bên hoàn toàn đối xứng với những cửa sổ tò vò hình tròn ở trên lầu, tượng trưng nguyên lý “sắc sắc không không” của đạo Phật. Cổng giữa có cửa chính hình chữ nhật, tầng trên mở nhiều cửa sổ nhỏ trông ra bốn phía. Sau tam quan là vườn rau rồi đến hòn giả sơn trước sân tiền đường.

Tiền đường cũng thuộc loại lớn, hàng hiên phía trước khá rộng do mái chảy dài, được đỡ bằng một dãy cột đá hình hộp mài nhẵn, trên đó có khắc những câu đối và trang trí bằng các hình long, ly, quy, phượng. Một trong những đôi câu đối đó có ghi đầy đủ địa danh và tên chùa:

Vạn thuỷ toàn lâm Bát địa quảng khai chung tú khí

Bảo sơn củng phục Tháp đài quang hiển chấn đông phong

Dịch nghĩa:

Sông Vạn đổ về, Bát đất mở to hun khí đẹp

Núi Bảo chầu phục, Tháp đài sáng rực dậy gió xuân.

Về nội thất, các bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu “thượng chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ”. Ở đây, các con rường được chạm nổi hình lá ba chẽ, nét chạm sâu và nổi khối khoẻ khoắn, vững chãic. Trên những bức cốn, hình rồng cuốn thuỷ, rồng ổ, hổ phù cùng cây cỏ… đều được thể hiện với kỹ thuật chạm nổi tinh xảo, mềm mại.

Hậu cung gồm 3 gian đặt dọc, làm theo kiểu “chồng rường, giá chiêng”. Trên các xà thượng và hạ đều có treo đầy đủ y môn, cửa võng, hoành phi… được chạm trổ và sơn son thếp vàng. Trên bậc cao nhất đặt bộ tượng Tam thế, gồm ba pho tượng khá giống nhau về kích thước và hình thức thể hiện mang nhiều nét dân gian với các cụm tóc xoáy kiểu “ốc bụt” theo hàng ngang. Bậc dưới bày tượng đức Phật Thế tôn với hai tôn giả A-nan, Ca-diếp ở bên cạnh. Dưới cùng là toà Cửu Long với tượng Thích Ca sơ sinh bằng đồng.

Trong chùa hiện có nhiều tượng Phật và tượng Mẫu khác nhau, được làm bằng gỗ và đồng. Một số ít được tạc và đúc vào cuối thời Lê, phần lớn tượng là những tác phẩm thuộc thời Nguyễn. Ngoài ra trong chùa Bát Tháp cũng lưu giữ được một số cổ vật bằng đồng khác có giá trị cao như đôi hạc, bát hương và quả chuông “Bát Tháp Tự Chung” đúc năm Gia Long thứ 2 (1803), v.v..

Chùa đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo quyết định số 1570/VH-QĐ ngày 5-9-1989.

ditichlichsu-vanhoahanoi.com

 

This Post Has 0 Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *