- Thân thế.
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ – Thế danh Bùi Văn Quý, sinh ngày 12 tháng 4 năm 1917 tại thôn 5, xã Phùng Thiện, tổng Bồng Hải, nay là thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Thân phụ là cụ ông Bùi Quang Oánh, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thinh, hai cụ đều là những Phật tử thuần thành. Ngài là con thứ hai trong gia đình có 3 anh em.
- Hành trạng.
– Xuất gia tu học.
Vốn được sinh ra trong gia đình có truyền thống thâm tín Phật Pháp, cho nên hạt giống Bồ đề của Ngài sớm nảy nở, năm lên 9 tuổi (1925) Ngài được song thân cho đến xuất gia với Sư cụ Thích Đàm Cơ, trụ trì chùa Phúc Long, thôn Phú An, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình và được Sư cụ cho theo học chữ Nho với cụ đồ Hiệng.
Năm 13 tuổi (1929) Đại lão Hòa thượng được Sư cụ cho đến làm đệ tử Sư tổ Thích Nguyên An, trụ trì chốn tổ Vọng, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Trải qua thời gian tu học, đến năm 16 tuổi (1932) Ngài được Sư tổ cho thụ giới Sa Di tại Giới đàn hạ trường chùa Đống Cao, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Năm 18 tuổi (1934) Đại lão Hòa thượng lên tham học và y chỉ vào Sư tổ Thích Quảng Tốn, kế đăng trụ trì Tổ đình Viên Minh, thôn Khai Thái, xã Tầm Khê, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay là xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội). Khi vừa tròn 20 tuổi (1936), Ngài được thụ Cụ Túc giới và Bồ Tát giới tại Đại giới đàn Tổ đình Viên Minh, do Sư tổ Thích Quảng Tốn làm Đàn đầu Hòa thượng.
Sau khi giới pháp đầy đủ, Ngài bắt đầu quá trình sam phương cầu đạo, Ngài đi sam học ở hầu hết các Sơn môn lớn thời bấy giờ như Sơn môn Tế Xuyên, Sơn môn Hương Tích…
– Hoạt động Phật sự.
Từ năm 1952 Ngài vân du hành đạo tại chùa Linh Ứng, thôn Kim Đới I, xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy, Thành phố Hải Phòng, đến năm 1957 Ngài lại trở về hầu thầy phụng Phật tại Tổ đình Viên Minh, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
Năm 1961 Sư tổ Thích Quảng Tốn, trụ trì đời thứ hai Tổ đình Viên Minh viên tịch, Ngài kế đăng làm trụ trì đời thứ ba Tổ đình Viên Minh từ đó cho đến nay.
Đến năm 1987, Đức Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử ba vị cao tăng là Cố Hòa thượng Thích Kim Cương Tử, Cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu và Cố Hòa thượng Thích Tâm Thông về Tổ đình Viên Minh mời Ngài lên Hà Nội chủ trì hiệu đính Đại tạng kinh Việt Nam và tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội. Từ đó Ngài đã đảm nhiệm nhiều chức vụ trong các cấp Giáo hội qua các thời kỳ:
– 1993 – 2008: Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Tây.
– 1993 – 2008: Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học Hà Tây.
– 1992 – 1997: Ủy viên Kiểm soát Hội đồng Trị sự GHPGVN.
– 1997 – 2007: Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự kiêm Phó Ban Tăng sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
– 2002 – 2007: Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
– 2003 – 2007: Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội.
– 2003 – 2007: Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
– 2007 – Nay: Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
– 2009 – Nay: Đường chủ của các Hạ trường tại Hà Nội, Hưng Yên.
– 2009 – Nay: Đàn đầu Hòa thượng các Đại Giới Đàn tại Hà Nội, Hưng Yên..
Bên cạnh việc đảm nhiệm các chức vụ Giáo hội, Ngài cũng có nhiều khóa tham gia làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
– Tác phẩm dịch thuật và trước tác
Ngài là bậc cao Tăng thông tuệ am hiểu Tam tạng Thánh giáo, đặc biệt Ngài tinh thông kim cổ và là người có những đóng góp không nhỏ trong việc biên soạn, dịch thuật và trước tác các tác phẩm về Phật học ở Việt Nam như:
– Đại Từ điển Phật học
– Đề cương kinh Pháp Hoa
– Kinh Bách Dụ
– Phật Tổ tam kinh
– Phật học là tuệ học
– Kinh Di Đà Viên Trung sao.
– Bát Nhã Dư Âm
– Luật Tỷ Khiêu Ni lược ký.
Ngoài những tác phẩm biên soạn, dịch thuật và trước tác về Phật học nêu trên, Ngài cũng sáng tác một số bài thơ Đường luật, theo thể thất ngôn bát cú để sách tiến hàng hậu học như: Mừng khai giảng khóa II, Trường Trung cấp Phật học Hà Tây; Cỗ tết nhà Chùa và Cảnh chùa Viên Minh.
– Ghi nhận công đức.
Trong suốt cuộc đời hành đạo tại Tổ đình Viên Minh, cũng như quá trình tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội và xã hội, Đại lão Hòa thượng đã có nhiều đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc. Công đức ấy luôn được Nhà nước và Giáo hội trân trọng ghi nhận, trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng nhì; Huân chương đại đoàn kết dân tộc; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Bằng tuyên dương công đức của Giáo hội.
- Thời kỳ viên tịch.
Trải qua 105 năm hiện diện ở cõi Sa Bà, với 85 hạ lạp, trên ngôi vị Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ngài đã trọn đời hiến dâng cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh; Ngài đã nhiệt tâm góp phần to lớn vào sự nghiệp làm sáng danh đạo Phật và dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Ngài từ sơ tâm cho đến lúc hoá duyên đã mãn là tấm gương lung linh chiếu sáng trong công phu tu thân, hành đạo cho cả giới xuất gia và tại gia; Ngài luôn lấy giới hạnh tinh nghiêm làm thân giáo để răn dạy, sách tấn kẻ hậu lai; Ngài đã thể hiện tinh thần Bi – Trí – Dũng trong công hạnh vô ngã vị tha, tận lực chuyên tâm vào sự nghiệp hoằng dương chính pháp, phục vụ nhân sinh.
Thời khắc thiêng liêng tương hội, công đức hóa duyên viên mãn, Đức Đại lão Hòa thượng Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thâu thần thị tịch vào hồi 03 giờ 22 phút ngày 21 tháng 10 năm 2021 (nhằm ngày 16 tháng 9 năm Tân Sửu), tại Tổ đình Viên Minh, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội, để lại trong lòng môn đồ tứ chúng, Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước niềm kính thương vô hạn. Tấm gương trong sáng, hiền đức uy nghi nơi Ngài mãi mãi hằng hữu trên trang sử vàng Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.
Nam mô Việt Nam Phật giáo Giáo hội Hội đồng Chứng minh Đức Pháp chủ Ma ha sa môn Tỷ khiêu – Bồ tát giới Pháp húy thượng Phổ hạ Tuệ Đại lão Hòa thượng Giác linh Thiền tọa hạ.
This Post Has 0 Comments