Chùa Liên Phái – Hai Bà Trưng
Chùa Liên Phái xây năm 1726, là tổ đình của thiền phái Liên Tông xuất hiện cuối thời Hậu Lê, địa chỉ ở ngõ chùa Liên Phái, số 182 phố Bạch Mai, phường Cầu Dền, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Tấm bia hiện còn trong chùa khắc vào năm Tự Đức thứ 10 (1857) cho biết chùa được xây dựng vào năm Bảo Thái thứ 7 (1726). Lúc mới xây, chùa có tên Liên Hoa, tọa lạc trên một khu đất và ao rất rộng (6 mẫu 2 sào, tức khoảng 22.000m2). Năm 1733 đổi tên thành chùa Liên Tông. Năm 1841 lại đổi là Liên Phái vì phải kiêng tên húy Nguyễn Phúc Miên Tông của vua Thiệu Trị (1807-1847).
Chùa từng là chốn tổ của phái Liên Tông (dòng Hoa Sen), một trong những Thiền phái của Phật giáo nước ta và xuất hiện từ cuối thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18). Về mặt kiến trúc, trong chùa có ngôi tháp mộ Cửu Sinh 5 tầng, cũng đã gần 300 tuổi. Đây là ngôi tháp cổ nhất nội thành cũ của Hà Nội.
Theo tấm bia “Gia phả ký” lưu giữ ở chùa thì Thượng sĩ Cứu Sinh, tức Như Trừng Lân Giác, tên chữ Trịnh Thập, sinh năm 1696, là con trai Tấn Quang Vương Trịnh Bính và lấy con gái thứ tư vua Lê Hy Tông nên được lập phủ riêng ở phường Hồng Mai (nay là Bạch Mai). Một lần Trịnh Thập cho đào đất ở gò sau nhà để xây bể cảnh thì thấy một cái ngó sen (không ghi là bằng gì), bèn coi là dấu hiệu của Phật và tin rằng có duyên đi tu, nên biến phủ đệ thành chùa, trở thành vị tổ thứ nhất, được triều Lê phong làm hoà thượng. Tổ mất năm 37 tuổi (1733), táng trong ngôi tháp xây giữa gò, nơi đã đào được ngó sen.
Chùa xưa có hình chữ “đinh”. Sau cổng đến vườn và sân trước rồi vào tiền đường và khu Tam bảo thờ Phật. Nếp nhà ngang nằm song song, nối với tiền đường bằng hệ thống vì kèo kiểu “vỏ cua”, một loại kết cấu thường thấy trong kiến trúc truyền thống ở các tỉnh phương Nam và một số kiến trúc muộn ở Bắc Bộ. Toà tiền đường rộng 5 gian, bộ khung nhà bằng gỗ với 6 vì kèo đỡ mái, được làm theo kiểu “chồng rường” và “quá giang cột trốn”. Trên các kiến trúc gỗ, ở đầu các thanh rường, quá giang có các hoa văn thực vật được chạm nổi.
Thượng điện nối với gian giữa tiền đường bằng một nếp nhà dọc ba gian. Các bộ vì kèo ở đây có kết cấu tương tự như ở tiền đường, các cột cái được kê trên trụ đá xanh hình tròn. Trang trí chủ yếu gồm các đề tài tứ linh và tứ quý. Nhiều cửa võng được sơn son thếp vàng lộng lẫy, bài trí từ gian giữa tiền đường đến tận vì hậu của thượng điện. Những nghệ nhân ngày xưa đã thực hiện các cửa võng rất công phu, tỉ mỉ bằng kỹ thuật chạm lộng, chạm thủng…
Từ Tam bảo đi qua một sân nhỏ thì đến nhà Tổ, phía sau là vườn tháp. Theo bản vẽ từ giữa thế kỷ 20 của Louis Bézacier thì trước đây ở quanh sân chùa Liên Phái có 30 ngọn tháp, đến nay chỉ còn 7 ngọn xếp thành hai hàng. Đáng chú ý nhất là toà Cửu phẩm ở hàng trước, được coi như quý hiếm vào bậc nhất trong các ngôi chùa cổ ở Hà Nội.
Hàng thứ hai ở giữa có năm ngôi tháp gồm những ngôi tháp cao, trong đó có ngôi tháp Cửu Sinh bằng đá xanh cao 5 tầng, hình tứ giác. Đây là tháp của Tổ Cứu Sinh. Trên cùng có bầu nước cam lộ, dưới có diềm cánh sen nhọn. Viền chân tháp là hình hoa sen, chạm nổi, cánh hoa to, nhọn, thân cánh sen hai lớp, giữa có hoa văn xoắn hình đao lửa, đó là đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc thời Hậu Lê ở nước ta. Trong lòng tháp có bài vị của Tổ Cứu Sinh, trên trần viền khối hình bát quái, bao quanh vòng tròn âm dương. Ở chân tháp tầng một có hình lân chầu, hoa sen nở xen kẽ lá lật ở ô phía trước. Hai bên tháp cũng chạm lân chầu và xen kẽ lá lật rất mềm mại.
Trong chùa Liên Phái, ngoài tượng Phật còn có tượng Thượng Sĩ Lân Giác và một quả chuông có chữ “Liên Tông tục diện” (Liên Tông kế tục sáng ngời), nét chữ kiểu thời Lê Trung Hưng. Theo như tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 7 thì các đời sau của phái Liên Tông gồm đời thứ 2 là sư tổ Khai Sơn, đời thứ 3: sư Bảo Sơn, đời thứ 4: sư Từ Phong…
Chùa được tu bổ nhiều lần, đợt lớn nhất vào năm Ất Mão 1855, dành 1000 quan tiền và 6 năm để sửa lại nhà Tổ, nhà tăng, tả hữu vu và tô tượng Phật, v.v.. Năm Kỷ Tỵ 1869 làm thêm gác chuông, xây dựng tường bao. Cuối thế kỷ 19 xây ngôi tháp lục giác, đặt xá lợi Tổ Diệu Quang cùng 5 nhà sư khác ngay trước cổng, hai bên có hồ rộng (nay không còn). Tiếp đến là nhà bia với 34 tấm bia ghi lại sự tích của chùa và các lần tu bổ, cũng như tên những người đóng góp công đức.
Chùa Liên Phái được Nhà nước xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1962.
This Post Has 0 Comments