Skip to content

Chùa Thái Cam xây năm 1822 trên đất của thôn Tân Khai mới thành lập, ngày nay thuộc phố Hàng Vải, phường Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Chùa Thái Cam vốn của thôn Tân Khai, một thôn mới được thành lập vào năm 1822 trên nền dải đất hoang phía đông hoàng thành thời Lê, thuộc tổng Tiền Túc (sau đổi là tổng Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương cũ. Trên cổng chính của chùa có đắp nổi 4 chữ “Tân Khai linh tự”, song đã từ lâu nhân dân thường gọi bằng một tên khác là chùa Thái Cam vì tương truyền ở đây “… có một cái giếng cổ nước rất thơm ngọt, gọi là giếng Thái Cam”.

Văn bia “Thái Cam tự bi” niên hiệu Thiệu Trị thứ 5 (1845) cho biết: “… Phía ngoài thành xưa có chùa Thái Cam, vốn là bãi bể nương dâu nay biến thành chùa. Theo sách xưa (của nhà vua) vào năm Giáp Tý, niên hiệu Gia Long thứ 3, bắt đầu xây dựng thành trì, mở mang bờ cõi, đến năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Mệnh thứ 3 mới xây dựng xong thành ốc, tiếp tục đăng ký hộ khẩu (theo cách nói xưa là vào sổ đinh). Phía ngoài thành có đền Tân Khai. Đó là tên cũ vậy. Rồi xây dựng chùa Thái Cam, đó cũng là tên cũ. Chùa ở phía trái của đền thờ thần, chùa ôm lấy núi Nùng, có sông Nhị bao quanh, hướng quay về phía đồng ruộng và gần con đường lớn…”.

Trong văn bia “Bản tự chân lục bi ký” dựng năm Ất Tỵ (1905) có viết : “…Đất này vốn thuộc thành Đông Quan xưa của nhà Hậu Lê, nay là đất Hà Nội. Năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Mệnh thứ 3, triều đình tuyển mộ dân đinh khai khẩn đất này, dần thành thôn xóm, dân trong thôn bèn lập đền thần, chùa phật, để thờ cúng, cũng năm đó chùa xây dựng xong”.

Trên tấm bia “Thái Cam tự bi” niên hiệu Bảo Đại thứ 10 (1935) cũng ghi: “… Xưa, vào năm Giáp Tý, niên hiệu Gia Long, tổ tiên ta ở thôn này đã tập hợp dân chúng xây dựng mới cho làng ta ở phía ngoài thành Thăng Long, trong làng có đình, bên cạnh đình có chùa Thái Cam. Đất này có núi Nùng bao quanh, có sông Nhị, uốn quanh phía trước, thật là cảnh đẹp thiên tạo…”.

Các văn bia trên đã cho biết rõ địa điểm dựng chùa hiện nay ở vào khu phía đông hoàng thành Thăng Long, và cụ thể hơn – vùng đất này từng là nơi đồn trại của quân đội. Duyên do bởi khi Gia Long lên ngôi, vua cho phá thành nhà Lê, xây lại một thành nhỏ hơn nằm trong vòng thành cũ. Từ đó một phần đất ở phía đông hoàng thành cũ bị gạt ra ngoài, dần dần trở nên hoang phế. Đến năm 1822, thôn Tân Khai được thành lập tại đây và chùa Thái Cam ra đời.

Chùa Thái Cam ngoài thờ Phật, thờ Mẫu, còn thờ vọng danh tướng Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc kiệt xuất ở thế kỷ 13, đã có công hai lần đánh bại quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta.

Trong quá trình tồn tại, chùa Thái Cam đã nhiều lần bị phá huỷ do hoả hoạn vào các năm 1828, 1837. Đặc biệt, trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, chùa đã bị hư hỏng nặng, chỉ duy có toà nhà Mẫu còn giữ nguyên được quy mô kiến trúc từ năm Bảo Đại thứ 8 (1933). Kiến trúc hiện nay của chùa mang dáng vẻ của lần đại trùng tu vào năm 1954.

Chùa Thái Cam có diện tích tương đối rộng rãi so với các ngôi chùa khác trong khu phố cổ Hà Nội. Chùa quay mặt về hướng nam, bao gồm các công trình: cổng, tiền đường, điện Phật, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Ni, tất cả tạo thành một khuôn viên khép kín. Trước chùa, bên trái và phía sau đều có sân gạch và tường bao quanh.

Vào chùa có thể đi hai lối khác nhau. Cổng chính ở số nhà 44 bên phố Hàng Vải, chung lối đi với đình; cổng phụ ở 16c phố Hàng Gà dẫn vào khu nhà Mẫu, nhà Tổ. Cổng chính xây gạch kiểu giả vòm, đổ mái bằng, có 4 trụ, bên trên cổng đắp cuốn thư ghi 4 chữ Hán: “Tân Khai Linh Tự” (Chùa thiêng Tân Khai).

Chùa chính có mặt bằng hình chữ “Đinh”, bao gồm 2 tòa tiền đường và thượng điện. Tiền đường 5 gian, xây kiểu hai tầng bốn mái chồng diêm, mái lợp ngói ta, đỉnh bờ nóc đắp hình mặt trời lửa và 4 chữ Hán “Thái Cam thiền tự”. Bộ khung bằng bê tông làm giả kiểu vì truyền thống, phía trước tiền đường treo bức y môn chạm thủng kiểu chân quỳ dạ cá với các hình “tứ linh” được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Gian giữa đặt một hương án, hai bên xây bệ cao đặt các bộ tượng Đức Ông và Thánh Hiền. Cạnh mỗi lối vào hậu cung có một tượng Hộ pháp đứng gác.

Thượng điện gồm 3 gian dọc. Các vì bằng bê tông cũng được làm mô phỏng cách thức vì cổ truyền. Từ ngoài vào, xây các bệ gạch cao dần làm nơi đặt tượng Phật. Trên cùng là 3 pho Tam Thế, rồi đến A Di đà toạ thiền, tiếp theo là tượng Di Lặc, Tuyết Sơn, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu và toà Cửu Long với tượng Thích Ca sơ sinh. Hai bệ hai bên tường là Thập điện Diêm Vương.

Nhà Mẫu và nhà Tổ vẫn giữ được kiến trúc vào lần tu sửa cuối cùng năm 1838 theo kiểu “trùng thềm điệp ốc” với các bộ vì kèo bằng gỗ và kết cấu cổ truyền. Các nếp nhà này lòng khá rộng, tạo không gian kiến trúc riêng biệt trong khu phố cổ Hà Nội.

Ra đời vào đầu thế kỷ 19, chùa Thái Cam vẫn bảo lưu được một số lượng di vật đa dạng, phong phú về thể loại và chất liệu, như hệ thống tượng tròn, bia đá, chuông đồng, hoành phi, câu đối mang giá trị lịch sử, văn hoá tiêu biểu của thủ đô Hà Nội. Các pho tượng tròn của chùa được tạo tác khéo léo, đạt tính chuẩn mực và thẩm mỹ cao… Đặc biệt trong chùa còn giữ được 13 tấm bia đá, một nguồn tư liệu thành văn quý giá, giúp các nhà nghiên cứu không chỉ tìm hiểu về lịch sử ngôi chùa mà còn minh chứng cho vị trí của toà thành Thăng Long thời Lê và về hiện tượng nông thôn hoá đô thị Hà Nội hồi đầu thời Nguyễn.

Chùa Thái Cam cùng với hệ thống các di tích trong khu vực này như chùa Cầu Đông, đình Đức Môn, đình Đông Môn, hội quán Phúc Kiến v.v. cũng đã giúp các nhà nghiên cứu hoạch định địa giới của kinh thành Thăng Long thời Lê – Nguyễn và địa giới của khu phố cổ Hà Nội. Năm 1990 chùa Thái Cam (cùng đình Tân Khai) đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

Theo ditichlichsu-vanhoahanoi.com

This Post Has 0 Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *