Lịch sử chùa Thầy
Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây Nam đi theo Đại lộ Thăng Long, du khách sẽ đến Chùa Thầy – Một khu danh lam Thánh tích sơn thủy hữu tình nổi tiếng trong nước và quốc tế.
Chùa Thầy có tên chữ là Thiên Phúc tự nằm dưới chân núi Phật Tích, thuộc xã Sài Sơn – huyện Quốc Oai – Thành phố Hà Nội. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Sở dĩ gọi là chùa Thầy bởi vì đây là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh – thuộc đời thứ 12 dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Do công đức vô lượng của Thiền sư đối với dân chúng trong vùng, nên hết thảy nhân dân đều gọi ngôi chùa Ngài tu là chùa Thầy và ngọn núi gắn liền với cuộc đời tu hành của Thiền sư được gọi là núi Phật Tích, hay núi Thầy.
Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông.
Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Thầy. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa chùa Thầy và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Liên Trì (ao sen)
Kiến trúc của chùa Thầy gồm ba tòa nhà chạy song song với nhau dựng trên nền cao bó đá hộc xanh. Tòa ngoài gọi là nhà tiền tế hay chùa Hạ. Tòa giữa là trung điện hay chùa Trung, tòa trong cùng là thượng điện, thờ các hóa thân của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, diễn tả 3 “kiếp” của Từ Đạo Hạnh: Tăng, Phật và Đế Vương. Bên trái là tượng toàn thân Thiền sư bằng gỗ bạch đàn lắp máy tự động có thể đứng lên ngồi xuống được, nhắc nhở thời kỳ Ngài đi tu ở Hương Hải am đã làm thuốc trị bệnh cứu người và dày công sáng tạo môn nghệ thuật múa rối nước cổ truyền để cho dân giải trí. Tượng đặt trên ngai, sau lưng ngai chạm trổ hình đầu rồng, lưỡi búa, sừng tê, ngọc báu…
Chính giữa là tượng Thiền sư khi đã thành Phật, đội mũ hoa sen, tay chắp trước ngực, khoác áo cà sa vóc vàng, đặt trên một bệ tượng bằng đá thời nhà Lý, có hình sư tử đội tòa sen. Bệ đá chạm những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình thần điểu Garuda. Đây là di vật thời nhà Lý còn sót lại duy nhất ở chùa. Bên phải là tượng Thiền sư sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng.
Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài thờ mười tám vị La Hán. Phía sau chùa là gác chuông và gác trống.
Trước cửa chùa có một thuỷ đình nhỏ vuông vắn dựng ở Hồ Liên Trì, dùng làm nơi diễn rối nước. Hai bên chùa có hai chiếu cầu mái, do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên ở bên trái, trông vào đền Tam Phủ xây trên một hòn đảo giữa hồ. Bên phải là cầu Nguyệt Tiên, nối với con đường lên núi. Trên núi có chùa Cao, vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự, là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Trên vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai làm vua Lý Thần Tông.
Phía trên chùa Cao có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,… trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ.
Từ chùa Cao, đi vòng ra phía sau là hang Cắc Cớ, trong hang có một bể chứa xương cốt của các Nghĩa quân. Trong một trận chống giặc ngoại xâm, các nghĩa quân đã bị bao vây nên rút vào hang núi cố thủ và chết vì đói. Sau này nhân dân địa phương đã xây một bể chứa trong hang và cho xương cốt của các nghĩa quân vào đó.
Đi ngược lên trên là đến đền Thượng. Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u. Cách một đoạn là đến hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu. Ở chân núi phía Tây còn có chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi.
Như vậy, quanh núi Thầy, ngoài chùa Thầy còn có cả một cụm kiến trúc Phật giáo được xây dựng trong những khoảng thời gian khác nhau.
Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh Căn đã phác họa cảnh chùa Thầy “như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải lụa”.
Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba Âm lịch hàng năm, để kỷ niệm ngày viên tịch của Thiền sư Từ Đạo Hạnh – Người đã khai sáng ra chùa Thầy, có công lao giáo hóa nhân dân, bốc thuốc cứu người. Trong ngày hội, nhiều Tăng Ni từ các nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn – một diễn xướng có tính chất tôn giáo – được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc.
Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở nhiều nước. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở. Như câu ca dao:
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy
Gái chưa chồng trông hang Cắc Cớ
Tuệ Đăng
This Post Has 0 Comments